http://vhtttg.blogspot.de/ chân thành kính chúc Qúy Độc Giả An Khang - Thịnh Vượng - Vạn Sự Như Ý

Chia sẻ thông tin văn hóa hữu ích

Chia sẻ thông tin văn hóa hữu ích

Câu chuyện cuộc đời: Ở Đức, phá thai không phải việc tùy tiện


Đây là câu chuyện kể về hành trình “phá thai” tại nước Đức của một người phụ nữ châu Á cùng chồng mình. Người chồng học tiến sĩ kinh tế học tại đại học Humboldt, còn người vợ đang học học kỳ 6 tại đại học Berlin. Hai vợ chồng đã thống nhất từ khi cưới rằng, trong vòng 3 năm sau khi kết hôn họ sẽ không sinh con.
Tuy nhiên nước Đức đã thay đổi điều ấy…

Ngày 6/12/2007, bác sĩ phụ khoa Celine thông báo với tôi rằng: “Bạn đã có thai!” Tôi nghe xong, tròn mắt và miệng thốt lên lời cảm ơn một cách vô thức, nhưng trong lòng lại thầm than khổ! Bởi vì tôi vừa mới kết hôn vào năm trước. Hai vợ chồng tôi vẫn còn đang đi học.
Ở quê hương tôi tại châu Á, việc phá thai là rất dễ dàng. Vậy nên về đến nhà, tôi gọi điện thoại cho bác sĩ Celine, hỏi xem cô có thể thu xếp giúp tôi việc phá thai được không. Thật không ngờ, bác sĩ Celine vốn có giọng nói ôn hòa, nhẹ nhàng bỗng trở nên bực bội, cứng ngắc:

“Xin lỗi, trong bệnh viện của tôi không có loại dịch vụ này!”

Tôi lại nói: “Vậy thì, xin cô có thể cung cấp cho tôi loại thuốc để sinh non được không?”
Tôi vừa nói vừa có chút luống cuống…

“Đương nhiên là không được, ở Đức bán thuốc sinh non là phạm pháp đấy!
Tại sao cô không suy nghĩ về việc giữ lại thai nhi và sinh con?”

Tôi thành khẩn giải thích cho cô Celine về hoàn cảnh của mình.

Sau một lúc trầm tư, cô nói với tôi một cách rất không đồng tình:

“Nếu như bạn quyết tâm bỏ thai thì đầu tiên bạn phải đi đến Ủy ban tư vấn tâm lý tại Trung tâm trợ giúp phụ nữ ở Berlin để trình bày cho các chuyên gia tâm lý nghe. Sau khi nhận được văn bản đồng ý của ủy ban và chỉ định bệnh viện phẫu thuật thì bạn mới liên hệ với bệnh viện đó để tiến hành các công việc tiếp theo.”

Ba ngày sau, chồng tôi đưa tôi đến trung tâm trợ giúp phụ nữ để hỏi ý kiến của các chuyên gia tâm lý. Người tiếp đón chúng tôi là một phụ nữ khoảng 45 tuổi, tên là Teresa, là một chuyên viên tư vấn tâm lý.

Cô Teresa bắt đầu hỏi hai vợ chồng tôi: “Tại sao hai vợ chồng bạn lại không muốn giữ lại đứa bé này?”

Cô Teresa vừa nghe chúng tôi trình bày vừa ghi lại những lời tôi nói lên một tờ giấy.
Sau đó, cô nhỏ nhẹ mời chồng tôi ra ngoài trước để nói chuyện riêng với tôi.

“Thưa cô! Xin hỏi là cô nguyện ý quyết định việc này phải không?”

“Cô nói gì?” Tôi trợn tròn mắt lên nhìn cô ấy một cách khó hiểu.

“Tôi là muốn hỏi rằng, cô quyết định bỏ thai là hoàn toàn xuất phát từ ý nguyện của bản thân mình chứ không phải vì bị ép buộc từ bên ngoài, giống như là bị chồng thúc ép hay là uy hiếp chẳng hạn?”

Trong phút chốc đó, tôi vừa có chút giận vừa có chút buồn cười mà hỏi lại:
“Chẳng phải việc này rất đơn giản sao? Chỉ cần qua tay của một người là xong, việc gì phải nâng lên đến thành thẩm vấn vụ án hình sự như vậy chứ ?”

Không đầy 5 phút sau, cô Teresa đưa cho chúng tôi một tờ giấy bản khai và nói:

“Xin hai vợ chồng cô hãy về nhà bàn bạc kỹ thêm một chút. Nếu như một tuần sau mà vẫn quyết định bỏ thai thì hãy mang tờ giấy kia đến để chúng tôi ký và đóng dấu.”

Khi chúng tôi còn đang chán nản và thất vọng đi ra ngoài thì cô Teresa lại nói một câu:

“Pháp luật ở Đức quy định, nếu thai nhi đã đủ 10 tuần tuổi thì tuyệt đối cấm nạo phá thai, cho nên xin hai bạn về nhà xác định chính xác thời gian mang thai nếu không sẽ phạm tội!”

Thông tin mà cô Teresa nói ra lại khiến chúng tôi quá sợ hãi. Căn cứ vào hồ sơ mà bác sĩ khám thì tôi đã mang thai được 8 tuần rồi, cộng thêm mấy ngày hôm nay đi hỏi xem bỏ thai thế nào cho hợp pháp đã mất 2 ngày nữa, vậy là chỉ còn 12 ngày nhưng bây giờ lại phải suy nghĩ trong vòng 7 ngày để lấy được chữ ký và con dấu này nữa, không biết có kịp không.

Tôi lại tới một phòng khám ở Berlin để xin họ giải quyết sớm hộ tôi. Tiếp đón tôi là một y tá rất nhẹ nhàng, thái độ của cô ấy rất thân mật. Cô ấy nói:

“Tôi rất hiểu hoàn cảnh của chị và cũng rất muốn giúp đỡ chị nhưng trước khi làm phẫu thuật, phụ nữ có thai nhất định phải tự mình đi đến Ủy ban tư vấn tâm lý để được tư vấn. Sau đó phải nhận được văn bản đồng ý của họ thì phòng khám mới tiến hành giải quyết được!”

Từng ngày trôi qua, lòng tôi như lửa đốt… Một tuần sau, tôi cầm bản tờ khai tới “Ủy ban tư vấn tâm lý” và nhận được sự đồng ý. Từ nơi ấy, chúng tôi tranh thủ lái xe thật nhanh tới bệnh viện mà tôi được chỉ định để bỏ thai.

Tới bệnh viện, một nữ bác sĩ trẻ tuổi tiếp đón chúng tôi, rồi cô ấy đưa cho tôi một bản tài liệu. Bên trên bản tài liệu này là dòng chữ màu đen được in đậm:

“Xin đừng dễ dàng bóp chết sinh mệnh vô tội!”

Lúc này tôi thực sự hoang mang và hoảng sợ…
Vì đã có giấy hẹn đồng ý của ủy ban tư vấn, mọi thủ tục với tôi đều diễn ra thông thuận. Bệnh viện hẹn tôi sẽ làm phẫu thuật vào 9 giờ sáng ngày thứ hai tuần sau. Nhưng ngay hôm đó, tôi phải làm một số xét nghiệm toàn bộ và gặp mặt bác sĩ gây tê một lần.

Khi ra về, tôi đi qua phòng “Chống nạo phá thai”, một phụ nữ trung niên đi đến bên tôi nói một cách cấp bách nhưng cũng không mất đi vẻ lịch sự:

“Cô thực sự quyết định không cần đứa con trong bụng này sao? Cho dù là cô không chào đón sự ra đời của đứa trẻ này, cũng đừng dễ dàng bóp chết một sinh mệnh. Mặc dù cô là mẹ của đứa trẻ, thì cũng không có quyền làm như vậy! Phải biết rằng, ý nghĩa của sinh mệnh nằm ở sự tôn trọng …”

Tôi vội vàng giải thích một câu: “Chúng tôi đều đang còn đi học, không có điều kiện…”
rồi vội vã chạy đi, bỏ lại đằng sau hai từ: “Tạm biệt”.
Lẽ ra việc sắp hoàn thành, trong lòng phải cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng suốt chặng đường đi, trong lòng tôi lại rầu rĩ khó tả, ánh mắt của người phụ nữ kia cứ như thể theo sau tôi vậy.

Đến ngày hôm sau là đến hẹn bỏ thai, bác sĩ cho tôi biết tình trạng sức khỏe của tôi không có vấn đề gì. Hai vợ chồng tôi đến bệnh viện chỉ định, ngoài trời tuyết rơi phủ trắng cả đường nhưng những nhân viên bảo vệ thai nhi ấy vẫn đang đứng trong gió tuyết mà khuyên bảo từng người phụ nữ ra vào cửa. Tôi lặng người một lúc ngồi trong xe nhìn họ, không biết bao lâu thời gian, chồng tôi cúi vào trong xe cầm tay tôi.
Tôi đột nhiên tỉnh lại, nói một lời dứt khoát: “Không!”
Rồi tôi kéo tay chồng tôi đến trước mặt các bác sĩ gây tê nói lời xin lỗi.
Nhưng họ không có vẻ gì là giận tôi cả mà trên mặt đều toát lên vẻ mừng rỡ.

Khi đi qua phòng “Chống nạo phá thai”, mấy nhân viên của tổ chức này rất tự nhiên vừa nở nụ cười vừa ôm tôi, rồi lấy từ trong túi ra một ngôi sao làm từ vải và nói:

“Bạn thân yêu, đây là dành cho cháu bé, bạn là người mẹ thứ 1247 mà chúng tôi khuyên thành công.
Chúc mừng bạn đã có quyết định sáng suốt nhất cuộc đời.”

Tôi nắm đôi tay lạnh như băng của cô nhân viên, những bông tuyết vẫn còn đọng trên mái tóc của cô khiến nước mắt tôi trào ra lúc nào không biết.
Giờ đây, tôi cảm thấy thật xấu hổ khi phải nhắc lại chuyện này.
Nhưng tôi vẫn muốn kể ra câu chuyện này để nói với các bạn rằng:
“Đừng dễ dàng từ bỏ giọt máu của mình!”

Bởi vì không phải ai cũng may mắn như tôi là sinh sống ở nước Đức, nhờ vào quy định nghiêm ngặt của họ mà tôi đã không phải hối hận suốt cuộc đời mình.
Còn các bạn ở những nơi mà “chuyện bỏ thai là một việc rất dễ dàng” thì bạn có cơ hội để giữ lại con của mình không?

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam là nước có tỷ lệ phá thai cao nhất Châu Á và là một trong năm nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới.
Tháng 9 năm 2016, theo GS-BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, Phó Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam, tổng tỷ suất phá thai nước ta là 2,5 – nghĩa là trung bình mỗi phụ nữ Việt Nam đã trải qua 2,5 lần phá thai trong cả cuộc đời sinh đẻ của mình.
Đáng báo động là có đến 20% người nạo phá thai ở Việt Nam nằm trong độ tuổi vị thành niên.

Cũng theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2021, thế giới có hơn 5 triệu người chết vì đại dịch COVID-19, nhưng có đến 42,6 triệu thai nhi bị phá bỏ.

Uyển Như biên tập
Read more…

CÂU CHUYỆN VỀ JACKY LY

Khó có thể biết Lý Vĩnh Thắng – tên tiếng Việt của Jacky Ly – sẽ trở thành người như thế nào nếu Thắng và gia đình vẫn còn ở một ngôi làng nghèo miền núi ở Phó Bảng, Hà Giang. Có thể Thắng là một “học sinh nghèo vượt khó” xuất sắc nhưng cũng có thể Thắng chỉ là một anh nông dân chăn bò, làm nương rẫy, như thời niên thiếu, và chôn cuộc đời ở một ngôi làng nhỏ đến mức thậm chí gần như “không có tên” trên bản đồ các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam. Câu chuyện về Jacky Ly là trường hợp điển hình của vô số gia đình Việt Nam trong đó việc quyết định tìm kiếm tự do bằng con đường vượt biên là chọn lựa duy nhất và quyết định đó đã mang lại những bước ngoặt thay đổi khó có thể ngờ…

Băng rừng vượt biên

Việc chuẩn bị được thực hiện chu đáo và cẩn thận. Trước khi đưa cả nhà đi, ông Lý Hội Quyền – cha của anh Lý Vĩnh Thắng – đã một mình lẻn sang Vân Nam-Trung Quốc để dò xét và tìm chỗ ở tạm. Một đêm năm 1987, Thắng – lúc đó 10 tuổi – cùng hai chị và đứa em gái được bố mẹ chở trên xe đạp. Hành lý mang theo chỉ là vài bộ đồ và ít thức ăn. Họ bắt đầu cuộc hành trình bí mật. Phải kín đáo và thận trọng tuyệt đối. Chỉ một dấu hiệu đáng ngờ, họ cũng có thể bị hàng xóm trình báo và bị công an bắt. Đây là lần thứ hai họ vượt biên. Lần thứ nhất, đi từ Hải Phòng, trước đó vài năm (1979), đã thất bại. Sau chuyến đi không thành đó, gia đình ông Lý đến sống ở Tân Mỹ, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Họ lầm lũi sinh nhai bằng nghề nông. Tuy nhiên, ông Lý vẫn âm thầm tìm cách thoát. Hành trình vượt biên lần thứ hai khởi hành từ đây, cách biên giới Việt-Trung đến 400 km.
Jacky Ly cùng bố và em gái (ảnh nhân vật cung cấp)

Băng qua biên giới một cách an toàn là điều không đơn giản. Vết tích cuộc chiến Việt-Trung 1979 vẫn còn in đậm. Cả hai bên biên giới đều đầy mìn và bẫy chông. Để tránh bị phát hiện bởi lính biên phòng của cả hai bên, gia đình ông Lý phải len lỏi đi trên những con đường mòn nhỏ, xuyên rừng. Có những đoạn ông Lý phải cõng đứa con gái sáu tuổi gần như suốt ngày lẫn đêm (sau này khi kể lại, ông nói rằng nếu không phải là cô con gái của ông mà là khối vàng thì ông cũng sẵn sàng vất bỏ vì quá cực nhọc).

Sau 14 ngày, gia đình ông Lý vào đất Vân Nam-Trung Quốc. Thở phào. Nhưng chưa nhẹ nhõm. Không giấy tờ tùy thân, họ có thể bị nghi ngờ, tố giác và bị công an Trung Quốc bắt đuổi trở về Việt Nam. Cả nhà ông Lý phải di chuyển liên tục và có khi phải chia ra ở rải rác. Họ chỉ tá túc một chỗ trong vài tuần rồi lại tìm nơi khác. Cuối cùng, họ đến Phòng Thành, Quảng Tây. Tại đây, ông Lý cùng một số người Việt khác, cũng vượt biên trốn khỏi Việt Nam, tìm cách đi khỏi Trung Quốc. Họ tìm được một đầu mối giới thiệu mua thuyền và thuê tài công. Họ dự tính thoát đến Macau. Nếu Macau từ chối nhận tỵ nạn, họ sẽ đi Hong Kong. Nếu Hong Kong khước từ, họ sẽ đi Nam Triều Tiên. Nếu lại bị từ chối, họ sẽ đi Nhật Bản!

Ngày 18-6-1988, 72 người tỵ nạn, trong đó có sáu thành viên gia đình ông Lý, lục tục xuống chiếc thuyền đánh cá cũ nát. Con thuyền dài 12m-rộng 3m chỉ có mái che sơ sài cho khoang động cơ. Mọi người mang theo lương thực cho khoảng 30 ngày và phó mặc số phận cho hai tài công. Sau vài ngày lênh đênh, giữa cái nắng lột da và những cơn đói dữ dội, họ bị một trận bão dập tơi bời, những tưởng thuyền bị lật úp và tất cả chết đuối giữa biển. Khi đến Bắc Hải, thành phố phía Tây Nam Trung Quốc, họ lại bị một “cú sét đánh” thậm chí choáng váng hơn: qua radio, họ biết tin Macau lẫn Hong Kong vừa tuyên bố ngưng nhận người tỵ nạn Việt Nam. Bất kỳ người tỵ nạn Việt Nam nào đến Hong Kong sau ngày 16-6-1988 đều bị đưa vào trại tập trung để trả lại quê nhà. Không lẽ quay về? Họ liều mạng đi tiếp.

Ảnh ID của Vĩnh Thắng-Jacky tại trại tỵ nạn Hong Kong (ảnh nhân vật cung cấp)

Sau 13 ngày “nướng” mình dưới nắng biển, họ đến gần Macau. Hai tài công rời thuyền. Họ được thuê chỉ để đưa mọi người đến đây, như thỏa thuận. Một người Việt, tên Thái, bất đắc dĩ trở thành người lái thuyền. Sự thiếu kinh nghiệm đi biển lập tức được “trả giá” sau đó khi thuyền va vào đá ngầm. Hỗn loạn và sợ hãi. Thật may là họ được cảnh sát biển Macau phát hiện và cứu. Sau khi giúp sửa thuyền, cảnh sát Macau yêu cầu tất cả rời đi. Mọi người lại ra khơi, gần như trong vô vọng. Cuối cùng, ngày 1-7-1988, thuyền đến Hong Kong. Đây là con thuyền thứ 47 của người tỵ nạn Việt Nam đến sau khi Hong Kong ban bố chính sách mới dành cho người tỵ nạn kể từ ngày 16-6-1988.

Jacky Ly (đi hàng đầu) vào thời điểm chỉ huy một đại đội nhảy dù (ảnh nhân vật cung cấp)

Những năm tháng ở trại tỵ nạn Hong Kong in sâu ký ức Thắng. Nếu không được bố mẹ và hai chị dạy bảo và che chở, Thắng rất có thể đã trở thành đứa bé hư hỏng đi theo đám băng nhóm giang hồ thuộc thành phần tỵ nạn đến từ các tỉnh khác của Việt Nam. Trại tỵ nạn chật chội, đông đúc, với đủ thành phần phức tạp, đã tạo thành một xã hội Việt Nam thu nhỏ nơi người ta không chỉ giành giật miếng ăn mà còn gây ra những hành vi tội phạm. Hãm hiếp và đâm chém xảy ra như cơm bữa. Sau hơn hai năm sống trong cảnh nhốn nháo, gia đình ông Lý cuối cùng được Chính phủ Mỹ đồng ý cho tỵ nạn. Họ được đưa qua Philippines sáu tháng để học tiếng Anh trước khi đến Mỹ…

Bắt đầu từ tay trắng

Nước Mỹ. North Carolina. Cuộc hành trình dài đã đến đích. Tuy nhiên, một chặng mới lại bắt đầu. Tất cả đều chỉ có hai bàn tay trắng. Họ đã rời con thuyền rách nát số 47. Họ đã rời khu ổ chuột tỵ nạn Hong Kong. Họ đang đặt chân đến một vùng đất xa lạ và tiếp tục đi trên những con đường thậm chí khó khăn và khó lường hơn cả những con đường mòn vượt rừng xuyên bóng đêm băng qua Vân Nam ngày nào. Phần tiếp theo của câu chuyện là chuỗi nỗ lực điển hình của gần như mọi người Việt tỵ nạn giai đoạn đó. Chen chúc trong căn nhà nhỏ được cấp tạm cho người tỵ nạn, gia đình ông Lý lao vào xã hội Mỹ với vốn liếng tiếng Anh gần như bằng không. Ông Lý phải làm ba “job” để giúp gia đình. Ban ngày ông làm thợ hàn. Ban đêm ông làm công nhân xưởng lắp ráp. Và cuối tuần ông làm nhân viên phục vụ nhà hàng. Trong khi đó, vợ ông lãnh quần áo gia công về nhà may; và hai chị của Thắng-Jacky đi làm nail sau khi học xong trung học. Jacky cũng phải đi làm thêm vào cuối tuần, từ chạy bàn đến rửa chén, cho đến khi vào đại học và vào quân đội…

Jacky Ly thời gian đóng quân ở Afghanistan (ảnh nhân vật cung cấp)Jacky Ly và Bộ trưởng Quốc phòng (lúc đó) James Mattis (ảnh nhân vật cung cấp)Jacky Ly (phải) thời gian làm việc tại Việt Nam (gần bốn năm) với nhiệm vụ Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng (ảnh nhân vật cung cấp)

Khó có thể biết ông Lý Hội Quyền nghĩ gì về tính mạng của mình cũng như vợ con vào thời điểm ông quyết định đưa cả nhà đi vượt biên. Nhưng có điều chắc chắn rằng ông không thể tưởng tượng có ngày mà cậu con trai duy nhất của ông, Vĩnh Thắng – Jacky, lại thành đạt hơn cả sự mong đợi, với không chỉ hai bằng master (từ National War College và Đại học Johns Hopkins), mà còn trở thành một sĩ quan cấp cao quân đội Hoa Kỳ. Ông Lý Hội Quyền (từ trần năm 2012) – người mà Jacky luôn xem như là tấm gương vĩ đại đối với mình – cũng khó có thể tưởng tượng một ngày mà con trai ông trở về lại Phó Bảng với tư cách một sĩ quan quân đội Mỹ, ở cương vị Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt, thực hiện các dự án hợp tác và tìm kiếm cơ hội hỗ trợ những gia đình nghèo miền núi Việt Nam, nơi có bóng dáng những đứa trẻ lếch thếch hệt Vĩnh Thắng ngày nào…

Tôi phải cố gắng, luôn cố gắng, phải “work extra hard” – Jacky nói. Ngày 1-1-2021, Jacky Ly trở thành đại tá quân đội Hoa Kỳ (lễ gắn lon chính thức được tổ chức chiều ngày 23-4-2021). Sau hơn 20 năm phục vụ quân đội Mỹ, Jacky Ly vẫn muốn tại ngũ. 42 tuổi, Jacky sẽ còn đi xa, thậm chí có thể xa hơn cả những điểm đến mà người cha không bao giờ có thể nghĩ tới, khi ông cõng cô em gái của Jacky lên đường trong đêm tối cùng gia đình ra đi chỉ với một thôi thúc: tìm kiếm tự do và một tương lai sáng sủa hơn cho các con của mình.

*****

Đại tá Jacky Ly

Từng chỉ huy đại đội lính nhảy dù mũ đỏ (thuộc 82nd Airborne Division) và tham gia chiến trường Afghanistan, Iraq, cũng như công tác tại Hàn Quốc, Hawaii…, cuộc đời Jacky Ly gắn liền với binh nghiệp. Nhập ngũ năm 18 tuổi khi vào Vệ binh North Carolina với dự tính ban đầu chỉ phục vụ quân đội ba năm nhưng sau đó Jacky không rời bộ quân phục. Jacky tốt nghiệp bằng cử nhân quản trị doanh nghiệp về hệ thống thông tin máy tính từ Đại học Appalachian State. Trong thời gian quân ngũ, ngoài những khóa đào tạo chuyên biệt trong quân đội, Jacky còn học National War College, Đại học Johns Hopkins, và Trường tham mưu quân sự Malaysia. Từng là Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng (Chief of the Office of Defense Cooperation) trực thuộc Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, Jacky còn là cố vấn quân sự cấp cao và chánh Văn phòng Hợp tác An ninh trực thuộc Phái bộ Hoa Kỳ tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Jakarta, Indonesia. Đại tá Jacky Ly sắp nhận nhiệm vụ mới tại Đông Nam Á với tư cách tùy viên quốc phòng.

Jacky Ly trong lễ tuyên thệ và gắn lon đại tá, với sự chủ trì của Thiếu tướng Lương Xuân Việt (qua màn hình video từ Nhật) vào chiều 23-4-2021 (ảnh MK)Đại tá Jacky Ly cùng vợ và con (ảnh MK)Mẹ và em gái út của Jacky (ảnh MK)(Trái sang) Đại tá Jacky Ly cùng mẹ vợ, chị của mẹ vợ và Phó Đề đốc Nguyễn Từ Huấn trong lễ gắn lon của Jacky (ảnh MK)Ba phụ nữ quan trọng trong cuộc đời Jacky Ly (trái sang): mẹ ruột, mẹ vợ và vợ (ảnh MK)


Share
Read more…

Lê Quốc Quân - Chuyện bây giờ mới kể.

Hôm nay phiên phúc thẩm xử đã xong được vài ngày. Y án. Tôi để vài hôm suy nghĩ, đêm nay lúc 2 giờ sáng châu Âu mới quyết định viết cảm nghĩ về thân phận người bạn của mình.


Với cá nhân tôi, tôi hài lòng với chuyện Quân y án. Nếu có mong thì mong Quân không bị bắt, nếu bị bắt thì mong được xử án treo. Còn khi đã xử Quân 30 tháng tù giam, rồi kéo dài thời hạn xử phúc thẩm một cách bất thường để qua phiên Việt Nam báo cáo nhân quyền tại Liên Hợp Quốc, khiến Quân phải chịu nhiều ức chế đến nỗi thể xác tiều tụy, thì tôi cũng không trông mong gì Quân được án treo thả về ở phiên tòa phúc thẩm.


Tất nhiên thì nhà cầm quyền VN sẽ chẳng bao giờ tuyên án Quân vô tội. Vì nếu Quân vô tội thì quãng thời gian anh ngồi tù, bao nhiêu mất mát anh phải chịu sẽ được tính thế nào. Và nếu xử Quân vô tội ở phiên phúc thẩm thì đã chẳng phải là cái nhà cầm quyền này rồi.


Ngại nhất nhà cầm quyền ở phiên phúc thẩm xử thời gian còn lại của Quân án treo, thử thách với thời gian vài chục tháng. Như thế họ được tiếng là đã nhượng bộ với quốc tế, nhưng họ vẫn trói buộc Quân bằng một án tù tại gia. Chúng ta hãy nhìn án treo, thử thách, quản chế của Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Phương Uyên thì biết điều đó không khác gì một hình phạt tù trá hình khác. Thời gian sống trong giang hồ, tôi thấy nhiều tay anh chị lọc lõi họ còn thích chọn án tù ngồi thời gian ngắn còn hơn án treo dài kèm cái đuôi thử thách, quản chế lê thê đến vài năm.


Về với gia đình ngày nào, tất nhiên tốt ngày đó, nhưng về với cái giá thế nào là cả một chuyện khác. Người khảng khái như Quân chắc hiểu được điều này. Chỉ cần Quân nhận tội trốn thuế, xin khoan hồng, bồi hoàn vài trăm triệu..để báo chí, truyền thông tung hô rằng nhà nước xử đúng người , đúng tội. Bọn thù địch bên trong và bên ngoài trước giờ xuyên tạc, lợi dụng, giờ đối tượng nhận tội rành rành, nhà nước cũng nhân đạo...abc.


Tôi mừng khi thấy ở phiên tòa phúc thẩm, dù tình trạng thể lực suy kiệt, anh vẫn cứng cỏi đối đáp và không chấp nhận lời cáo buộc của viện kiểm sát, tòa án.


Giờ là một nét khác về Lê Quốc Quân, đó là công việc của anh, điều mà ngay cả báo chí nhà nước, dư luận viên không nhắc tới, hoặc chỉ nhắc đôi dòng. Tôi chắc nhiều người có thiện cảm với Quân cũng không biết công ty của Lê Quốc Quân hành nghề gì. Chỉ một số ít người biết điều đó. Đó cũng chính là lý do tôi trước đây khuyên Quân bỏ công ty, giải thể và về quê tránh nạn. Tất nhiên không phải là tránh tội trốn thuế, vì tội đó có đâu mà tránh.


Công việc của Quân cực kỳ ảnh hưởng tới một số doanh nghiệp lớn. Đó là anh xếp hạng tín nhiệm các công ty lớn trong nước. Nhiều năm cần mẫn, làm việc khoa học, tỉ mỉ, Quân có đầy đủ số liệu để đánh giá năng lực của các doanh nghiệp lớn trong nước. Trước đây vài năm , Quân đã dự định phát hành một cuốn sách khái quát đánh giá năng lực doanh nghiệp, một vài ngân hàng lớn bị Quân đánh giá kém. Bây giờ thì thực tế chứng minh đánh giá của Quân đúng đến đâu, tôi vẫn nhớ rằng Viettinbank là một ngân hàng nằm trong số đó.


Chúng ta thử hình dung trước kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà thủ tướng đang thúc đẩy kia, sẽ ra sao khi các đối tác tìm hiểu mua cổ phần doanh nghiệp họ tham khảo tài liệu mà Quân cung cấp.?


Tôi khẳng định rằng, nghề mà hot nhất năm 2014 và 2015 tới đây là đánh giá tài sản, giá trị doanh nghiệp. Một nghề cần cho cả hai bên. Bên bán muốn biết mình đang ở giá trị thực sự là bao nhiêu vì sợ bị bán hớ. Bên mua cũng cần thông tin thực sự về doanh nghiệp để mua khỏi hớ.


Có lẽ vì lý do này, mà khi khám xét các văn phòng của Quân và em trai Lê Đình Quản, người ta thu sạch máy móc, giấy tờ ...tất cả những gì có thể thu được, trong đó nhiều dữ liệu đánh giá tín nhiệm các doanh nghiệp lớn.


Nhưng chuyện đánh giá doanh nghiệp chưa hẳn là chuyện cuối cùng. Lê Quốc Quân còn làm một việc nữa khiến các ông chủ Trung Quốc và Việt Nam rất hận, có thể hận thấu xương tủy.


Một số doanh nghiệp Trung Quốc muốn lừa đảo bảo hiểm quốc tế. Họ ký hợp đồng xuất khẩu một lượng hàng A sang cho công ty X ở Việt Nam. Công ty TQ mang hợp đồng mua bán này để mua bảo hiểm rủi ro quốc tế, trường hợp bên công ty VN không trả tiền thì họ sẽ nhận được tiền bảo hiểm.


Công ty X ở Việt Nam có thể là công ty do ông chủ thực sự người TQ đứng giật dây cho một cá nhân VN hám tiền nào đó đứng tên công ty. Hoặc công ty TQ giao hẹn với công ty X ở VN là sẽ bán cho một số hàng trên giấy tờ, công ty VN không nhận hàng thực sự, không phải trả tiền, trái lại công ty TQ sẽ cho một ít tiền.


Chúng ta không lạ gì những công ty bán hóa đơn, trốn thuế, lừa đảo do những người hám tiền, thiếu hiểu biết bị bọn gian manh dựng lên. Những công ty như thế nhan nhản ở Việt Nam.


Lê Quốc Quân được công ty bảo hiểm quốc tế thuê để tìm hiểu, xác minh có chuyện mua bán này không. Có chuyện hàng hóa đã được giao, và bên mua không trả tiền không.? Tôi đã từng thấy những hồ sơ mà công ty TQ bán cho công ty VN với số tiền đến cả triệu usd ở văn phòng của Lê Quốc Quân. Những hồ sơ này do bên bảo hiểm quốc tế chuyển cho Quân để xác minh.


Việc mua bán ảo trên giấy tờ giữa công ty TQ và công ty VN để lừa bảo hiểm, số tiền thu về hàng triệu usd này vào túi ai ?. Thực chất phía TQ là người bán hàng, đứng ra mua bảo hiểm, họ nhận phần lớn số tiền. Phía công ty VN chỉ nhận được rất ít. Nhưng giá đổi lại là tín nhiệm của các công ty VN trên thương trường quốc tế sẽ bị xếp hạng thảm hại.


Nhiều khi ngồi cùng Quân trên phòng làm việc của anh. Quân giở cho tôi xem những hợp đồng, số liệu. Anh đau đáu ca thán rằng cứ thế này chúng ta sẽ mất chữ tín trên thương trường, chữ tín cũng là tài nguyên, làm thế này coi như bán rẻ tài nguyên cho bọn Trung Quốc nó ăn của mình.


Tôi giả vờ không hiểu chuyện làm ăn, giả bộ không quan tâm. Vì tôi biết nếu tôi nối máu lên, tôi sẽ theo Quân vào một cuộc chiến mà những kẻ thù đầy quyền lực là đối thủ, sẽ động đến thực tế đồng tiền của chúng. Tôi chọn mặt trận văn hóa, ở mặt trận đó đối thủ của tôi cũng chả rõ ràng. Nhờ thế tôi tồn tại. Đó là sự khôn lỏi của tôi. Cứ chửi, xỏ xiên nhưng đừng động đến túi tiền của kẻ nào, dù đó là tiền bất nghĩa, bất nhân. Nhiều người thấy tôi viết, họ tưởng tôi anh hùng lắm, thực ra tôi rất hèn, tôi né tránh nhiều vấn đề mà tôi thấy nguy hiểm.


Việc gì mà mình không đủ sức can trường chấp nhận đến cùng như Nguyễn Văn Hải ( điếu cày ) Lê Quốc Quân, Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức...thì mình tránh luôn từ đầu. Chứ dở dở ương ương đến lúc bị sao, không có gan chịu, lại khai báo tuốt tuột ra ai đó như anh Dương Chí Dũng thì còn tệ hại hơn nhiều. Lúc đó cúi đầu xin xỏ, van lạy cả cháu chắt chúng nó, chưa chắc nó tha cho yên lành.


Các bạn thử đặt mình vào đại sứ quán Trung Quốc đầy quyền lực ở Việt Nam, họ có cam lòng để một tên như Lê Quốc Quân cản trở hàng triệu usd đang dễ dàng chảy về túi công ty nước họ hay không.?


Các bạn thử đặt mình vào người quản lý các doanh nghiệp nhà nước đang muốn cổ phần hóa có cam lòng để những thông tin xếp hạng doanh nghiệp của tên Lê Quốc Quân cản trở không.?


Dù sao thì Lê Quốc Quân, người bạn thân của tôi, đã kiên cường trước hai phiên tòa của nhà nước Việt Nam. Đó là niềm tự hào với ai đã quen biết, đã làm bạn với anh. Tuy thời gian tù đầy còn mười mấy tháng nữa. Nhưng khí phách còn, danh dự còn trong lòng anh em, bè bạn. Đó mới là cái được muôn đời.


Viết mấy dòng này, để cho bạn đọc hiểu thêm một khía cạnh khác về vụ án Lê Quốc Quân. Có thể nguyên nhân đưa ra ở đây không phải là yếu tố chính để người ta xử tội Lê Quốc Quân. Nhưng cũng là một khía cạnh tham khảo.


Nếu gia đình Quân có gặp anh, nhắn hộ anh là Hiếu Gió không bao giờ đồng tình việc anh tuyệt thực. Vì những điều phía trước, có thể là còn lâu, mà càng lâu thì càng cần giữ sức.

Người Buôn Gió
Read more…

Nghề Đi Sư.

TU, một chữ gốc từ chữ Tàu (bộ Nhân) đã thành danh từ (trong tiếng Việt) để chỉ: Sống khắt khe theo những giáo lý quy định chặt chẽ của một tôn giáo (nào đó) như tu đạo Phật, tu ở chùa, tu hành, tu sĩ, tu viện hoặc chú tâm vào việc học hành (một môn học) hay rèn luyện (bản thân) để nhằm đạt mức tận thiện như tu dưỡng, tu thân, tu tỉnh, chuyên tu, tự tu... Còn là động từ để nói: Sửa chữa, sửa lại như tu bổ, tu chỉnh, tu sửa... Ngoài các nghĩa trên thì chữ TU còn mang nhiều nghĩa khác như: Râu (tu mi nam tử), uống nhiều liền một mạch bằng cách ngậm miệng trực tiếp vào vật đựng mà dốc nghiêng vào (tu một hơi hết cả cốc nước đầy)... Từ chữ TU mà ngôn ngữ Việt có thêm các chữ (cụm từ) khác như: Tu binh mãi mã (huấn luyện quân đội để chuẩn bị phòng chiến tranh), Tu hành (rời bỏ cuộc sống thường nhật để thực hành theo một tôn giáo nào đó), Tu kỹ dĩ thân (lấy lòng thành kính mà sửa mình, tu thân), Tu thư (biên soạn sách giáo khoa), Tu nhân tích đức (ăn ở hiền lành, làm điều nhân đức để phúc lộc cho con cháu), Tu sĩ, Thầy tu (người đàn ông tu hành)...

Một chữ TU không thôi mà ta thấy có quá nhiều nghĩa khi giải thích và ở bài viết NGHỀ ĐI SƯ nầy thì Phạm Thắng Vũ (PTV) chỉ viết về tu sĩ hay thầy tu bên Phật Giáo không thôi. Chúng ta biết là bất cứ tôn giáo nào ngoài nhà thờ, chùa chiền thì đều cần có các tu sĩ để trông coi, hành đạo và hầu như để có các tầng lớp tu sĩ nối tiếp nhau thì tôn giáo đó còn phải có các tu viện, nhà dòng để đào tạo các tu sinh, chủng sinh, tiểu thành tu sĩ, thầy tu... Để thành một tu sĩ thực thụ thì một người bình thường phải tốn rất nhiều công sức (thời gian và sức lực), ý chí (học và hành đạo) chứ không phải một sớm một chiều mà thành (thầy tu) ngay được. Chính vì vậy, xã hội nào cũng dành sự kính trọng cho các tu sĩ, người đã từ bỏ gia đình cùng đời sống riêng của mình để nương thân vào chốn không cạnh tranh không ham danh-hám lợi nữa (vô sở cầu, vô sở trụ)... để tu, để giải thoát cho bản thân (sạch hết các ham muốn trần tục). Vẻ bề ngoài (sắc diện, y phục, ngôn từ) của các tu sĩ, đã mặc nhiên được xã hội chấp nhận là bậc lãnh đạo, dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh (người đời) mà không chút nghi ngờ về nhân thân (của tu sĩ).

Có người do lòng tham cá nhân, muốn hưởng sự kính trọng của xã hội dành cho bậc tu hành nên đã giả dạng làm một tu sĩ và các tu sĩ giả nầy, tất nhiên vẫn hưởng sự kính trọng của dân chúng (phật tử, con chiên) như mình là tu sĩ thật. Đọc trong sách sử thì ta cũng biết từ xa xưa có khi chính quyền làm cuộc kiểm tra các chùa để giới hạn số tu sĩ (tăng) trong chùa cùng buộc hoàn tục các tu sĩ giả mạo (ở ngoài xã hội). Những người giả mạo nầy đã coi tu sĩ là một NGHỀ để họ hành hòng hưởng lợi. Tại Việt Nam hiện nay thì ta có thể dễ dàng thấy ở bất cứ địa phương nào cũng có người giả dạng tu hành nhưng có lẽ nhiều nhất thì thuộc về làng Vũ Dương xã Bồng Lai huyện Quế Võ thuộc tỉnh Bắc Ninh. Làng nầy nguyên là một làng thuần nông (sống bằng nghề ruộng vườn, trồng trọt) mà ít đất đai nên tất nhiên việc mưu sinh trong làng rất khó. Đổi qua nghề buôn bán hàng hóa mà cũng không khá, dưới mái lá nhà tranh-vách đất thì dân làng vẫn chật vật trong việc có được bữa ăn hàng ngày. Vậy mà chỉ độ chục năm trở lại thì bộ mặt trong làng Vũ Dương đã khác hẳn trước. Ai đến làng bây giờ sẽ thấy nhà cao 2 tấm 3 tấm (tầng) mọc lên san sát bên nhau thay cho các mái nhà tranh năm xưa. Tai sao? Hỏi thăm thì biết chủ những ngôi nhà cao tầng nầy là các người ĐI SƯ (đi làm sư) về. Những tu sĩ giả (ĐI SƯ) nầy có cả thẻ (do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cấp) đeo trước ngực khi hành nghề (khất thực, bán nhang với giá cao, xin tiền để giúp xây chùa, nuôi cô nhi, người khuyết tật...). Vẻ bề ngoài (y phục nhà chùa cùng bộ dạng hiền lành) cộng thêm với ít kiến thức (tự học) về Phật Pháp (cũng có người thêm khoa bói toán) cùng sự kính trọng của dân lành (nạn nhân), đã giúp các tu sĩ giả mạo kiếm tiền thật dễ dàng. Từ một cái làng thuần nhà tranh-vách đất, luôn lo cái đói hàng ngày mà chỉ nhờ NGHỀ ĐI SƯ mà những người ăn đói-mặc rét hồi trước trong làng Vũ Dương, nay đã trở thành các ông chủ của các căn nhà cao-cửa rộng cùng tiền bạc rủng rỉnh. Bí quyết làm giàu của họ đã trở thành phương kế " thoát nghèo " cho dân trong làng bắt chước. Thanh niên thanh nữ lêu lỏng, thích ăn chơi trong làng cũng học theo các đàn anh của mình và việc " đào tạo thành sư " thật gọn gàng. Người ĐI SƯ trong làng Vũ Dương nhiều đến nỗi có lúc, chỉ trong một buổi sáng đã có tới trên 100 vị sư từ trong (các căn nhà cao tầng) đi ra (như đi trẩy hội) để tỏa khắp các phương trời (các thành phố miền Bắc hoặc sẽ vào tận các tỉnh ở trong miền Nam) mà hành sự.


Sư đếm tiền trong bình bát của mình.


Những cá nhân ĐI SƯ của làng Vũ Dương nầy chỉ vì tiền mà đánh mất đạo đức, sự hổ thẹn cá nhân của mình. Với họ, tiền là cứu cánh là phương tiện để sống nên đổ lỗi cho hoàn cảnh vì muốn thoát nghèo mà buộc lòng phải hành nghề tu sĩ giả mạo nầy. Không riêng gì các đàn anh trong làng Vũ Dương đã lấy hết kinh nghiệm hành nghề Đi SƯ của mình để truyền lại cho các người mới muốn học thì tại Hà Nội, xa hơn về hướng Tây Nam của tỉnh Bắc Ninh, lại có một văn phòng của lực lượng công an Việt Cộng chuyên đào tạo các công an tôn giáo. Đó là Cục A 22, nơi mà các học viên sau khi tốt nghiệp sẽ thành các tu sĩ phật giáo (cấp Đại Đức) trẻ để chính quyền dễ dàng gài vào tu tập (hay trụ trì) trong các chùa, tu viện ở bất cứ tỉnh thành nào trong nước (có khi còn gửi ra hoạt động ở hải ngoại nữa). Những công an tu sĩ nầy, tất nhiên do được đào tạo bài bản thì ngoài việc tuổi đời còn trẻ, đẹp trai, rành chuyện học hỏi kinh nghiệm giao tiếp (với phật tử) thì việc kinh kệ, Phật pháp... họ thuộc như cháo chẩy. Đến (thâm nhập vào) bất cứ nơi nào để hành sự (thi hành nhiệm vụ Đảng Việt Cộng giao phó) thì chắc chắn, họ sẽ dễ dàng một sớm một chiều chiếm được cảm tình của phật tử, để rồi (với thời gian) thì họ sẽ từng bước trở thành tu sĩ trụ trì, lãnh đạo (ngôi chùa, phật tử) nơi địa phương đó.



Học viên A22 trong một buổi liên hoan (để ý hình sex treo trên tường).


Sư và mũ công an Việt Cộng.


Hình như Việt Cộng vẫn chỉ lũng đoạn được hàng ngũ tu sĩ của đạo Phật, Cao Đài tại Việt Nam( Việt Cộng cố sức lũng đoạn hàng ngũ tu sĩ đạo Công Giáo, Hòa Hảo, Tin Lành nhưng vẫn chưa thành).

Để chấm dứt bài viết về NGHỀ ĐI SƯ nầy thì PTV xin kể một câu chuyện để các bạn đọc thấy cách gài người trong hàng ngũ tu sĩ của Việt Cộng. Câu chuyện kể về một linh mục đạo Thiên Chúa Giáo thời còn miền Nam VNCH là linh mục ĐCT (xin được dấu tên). Linh mục T có thời là linh mục tuyên úy trong quân đội miền Nam VNCH (cấp Tá) và khi còn ở ngoài miền Bắc (trước thời điểm di cư năm 1954) thì linh mục T có một người thân cận (thầy 6) lúc nào cũng theo chân linh mục như hình với bóng (để phụ việc). Linh mục T có xây vài ngôi trường trung học tư thục (trong vùng Gia Định-Hốc Môn-Gò Vấp thuộc ngoại ô Sài Gòn) và thầy 6 nầy là người giữ tay hòm-chìa khóa (quản lý về tài chánh) cho linh mục T. Đi đâu thì giáo dân ai cũng thấy hai thầy trò bên nhau, có gì ăn nấy... Thời điểm 30-4-1975 đến thì vào một buổi chiều cuối năm (không nhớ rõ ngày, tháng), có một chiếc xe hơi mầu trắng chạy đến đậu ngay trước căn phòng của linh mục T (trong khu nhà chung của xứ đạo) và một toán công an túa ra. Đám công an ùa vào phòng, đọc lệnh bắt rồi còng tay linh mục T, đưa lên xe rồi sau đó tống linh mục T đi tù cải tạo tuốt luốt ngoài miền Bắc xa xôi. Hết thời hạn cải tạo thì linh mục T bị an trí ở ngoài miền Bắc luôn như trường hợp của ông Vũ Hồng Khanh (người ký tên chung với Hồ Chí Minh trong thỏa ước Sơ Bộ 1946 với Thực dân Pháp). Hành động của đám công an trong buổi chiều hôm đó, xẩy đến đột ngột không ai ngờ và cái mà những người có mặt thấy tận mắt (rồi sau đó họ kể lại) là việc mà họ sợ đến sững sờ, chính là gã chỉ huy đám công an đến bắt linh mục T lại là thầy 6. Ai nghe chuyện kể cũng phải đặt câu hỏi không hiểu cái lão thầy 6 này ăn phải cái gì của Việt Cộng mà lão mê chúng khiếp đảm vậy? Và, nếu như linh mục T chịu đi di tản ra nước ngoài (trong thời điểm 30-4-1975) thì rồi với cái vỏ là thầy 6, cúc cung phụ việc với linh mục T (ở một quốc gia tự do nào đó mà phần chắc sẽ là USA) thì nhiệm vụ và bộ mặt thật của thầy 6 sẽ tiếp tục ra sao (trong nhiệm vụ nằm vùng cho chính quyền Việt Cộng)?

Phạm Thắng Vũ
Feb 09, 2014.
Last edited by phamthangvu; 02-10-2014 at 03:47 AM.


Hà Nội: Lật tẩy nhân diện các sư giả ở Phủ Tây Hồ



(Dân trí) - Không kể sáng hay chiều, những người vẫn thường được cho là sư tung hoành ở mọi nẻo đường vào Phủ Tây Hồ. Thấy vẻ mặt khắc khổ trong bộ quần áo nâu sồng của những người đầu trọc, đi chân đất nên nhiều du khách chẳng ngần ngại rút tiền bỏ vào... bát nhựa.


Cách thức hoạt động của những người gây lầm tưởng là sư ở Phủ Tây Hồ đó là đứng bất động thành hàng dài ở giữa lối đi vào Phủ nhằm thu hút sự quan tâm của du khách. Cứ mỗi lần có người ủng hộ tiền có mệnh giá lớn thì các “sư” nhanh tay đẩy tiền chẵn xuống dưới và tiếp tục đưa tiền lẻ lên trên. Khi bát nhựa đầy tiền, ngay lập tức họ cầm cả nắm nhét vào tay nải đeo ở trên vai và tiếp tục hoạt động.
Theo điều tra của chúng tôi, những người trong bộ dạng mà nhiều người lầm tưởng là sư thường ăn ở lang bạt ở gần khu vực Phủ Tây Hồ. Để có thể hành nghề từ sáng đến tối các sư giả chuẩn bị xoong, nồi đi cùng. Tranh thủ lúc du khách vắng họ cũng đi chợ, nấu cơm…
Điều đáng nói ở đây, phần lớn các du khách đến Phủ Tây Hồ ít tìm hiểu nguồn gốc của đội quân tưởng là “sư” này. Có người ngộ nhận những người đầu trọc, chân đất là sư, có người thì quan niệm đơn giản coi như là làm công đức mỗi khi đến chùa đình…
Trong vai người đi lễ ở Phủ Tây Hồ, chúng tôi đã bí mật tiếp cận với những đối tượng này. Và thật bất ngờ khi chính họ cũng thừa nhận mình không phải là sư mà đơn thuần chỉ là người đi “quyên góp” để cứu độ chúng sinh… nhưng lại không có giấy tờ chứng minh cũng như pháp hiệu.
Tưởng chừng những đồng tiền công đức vài nghìn đồng chẳng đáng là bao nhiêu nhưng có chứng kiến cảnh đội quân sư “biến” tiền lẻ thành tiền có mệnh giá lớn ở các chợ mới thấy “thu nhập” của họ khủng ra sao. Theo điều tra, một ngày trong bộ dạng giả sư đi cứu độ chúng sinh thì số tiền mỗi người thu được có thể lên đến tiền triệu…

Nguyễn Hùng – Nguyễn Dương

Hành động 'kỳ lạ' của nhà sư 'hốt bạc' trước cổng chùa Phúc Khánh

Thứ ba, 11/02/2014 13:44
(Xã hội) - Có người cho tiền, nhà sư gãi đầu gãi tai, ngó trước nhìn sau rồi nhanh tay cất giấu những đồng tiền có mệnh giá cao vào trong tay nải.

Liên tục có người cho tiền nhà sưTrước cổng chùa Phúc Khánh (Đống Đa – Hà Nội) sáng 10/2, xuất hiện một nhà sư không rõ lai lịch, đầu cạo nhẵn bóng, mặc áo tăng ni, chân đi dép tổ ong đứng xin tiền của khách hành hương.
Nhà sư mang theo một chiếc bình bát, trên vai đeo chiếc tay nải. Những người bán đồ lễ ở chùa Phúc Khánh không biết nhà sư này từ đâu tới và tu ở chùa nào. “Tôi thấy nhà sư không vào bên trong chùa mà chỉ đứng xin tiền du khách ở phía ngoài” – một người nói.

Nhà sư liên tục gãi đầu, gãi tai.Theo quan sát của PV, hành động của nhà sư này rất kỳ quặc, thường xuyên gãi đầu gãi tai rồi ngó nghiêng trước sau. Đặc biệt, mỗi khi có người cho tiền xong, nhà sư lại nhanh tay nhặt những đồng tiền có mệnh giá cao cho vào chiếc tay nải cất giấu.
Rất đông người dân đến chùa Phúc Khánh cầu bình an trong những ngày đầu năm khi nhìn thấy sự nhà sư đứng trước cổng chùa với chiếc bình bát thì đều cho tiền. Chiếc bình bát không ngớt những đồng tiền với nhiều mệnh giá khác nhau liên tục được nhà sư “tuồn” vào trong tay nải. Mặc dù đã quá 12 giờ trưa, nhà sư vẫn kiên trì đứng “hóng” tiền của khách.
Một bảo vệ ở chùa Phúc Khánh cho biết, sáng 10/2, khi ra nhận ca trực đã thấy nhà sư đứng ở đây rồi, "không biết nhà sư này ở đâu, khi tôi hỏi tu ở chùa nào thì nhà sư không nói gì, miệng chỉ lẩm bẩm “a di đà phật”.
Bảo vệ này nói thêm: “Bây giờ sư thật sư giả chẳng biết đường nào mà lần, cứ cạo trọc đầu là thành sư hết, kiếm tiền như bỡn. Tôi để ý thấy khách đến lễ ai cũng cho tiền, mỗi người một vài đồng, từ sáng đến giờ nhà sư này kiếm bộn tiền của khách”.

Nguồn Doisongphapluat.com

Read more…

LÁ GAN – QUẢ BÁO !


Bà Sính ở làng Tò có họ xa với gia đình tôi.

Làng Tò cách làng Hệ một con sông nhỏ, có cái cầu ván bắc qua, hai bờ tre rủ bóng xuống dòng nước xanh ngắt.

Tiếp giáp giữa làng Tò và làng Hệ là một nghĩa trang chung của hai làng. Người ta nói mộ cụ tổ làng Tò phát về quan lộc nên làng ấy thời nào cũng nhiều người làm quan, còn lảng Hệ chỉ quen chân lấm tay bùn. Bởi thế có câu: “Quan làng Tò, bò làng Hệ”, nghĩa là người làm quan bên làng Tò nhiều như bò làng Hệ.

Cụ Sính người làng Hệ lấy chồng làng Tò. Nghe nói trước cụ đẹp gái lắm nên mới lấy được chồng làng Tò, bình thường thì đừng hòng được trai làng Tò để mắt tới. Có lẽ vì vậy nên cụ Sính rất tự hào làm dâu bên ấy.

Nhưng số cụ Sính vất vả. Lấy chồng năm mười tám, chồng đi bộ đội biền biệt, mãi đến năm hai nhăm mới sinh được con trai đầu lòng. Con mới một tuổi thì chồng hy sinh ở mặt trận Điên Biên, cụ một mình nuôi con khôn lớn. Năm 1972, anh Sửu, con cụ, mới 19 tuổi đã xung phong đi bộ đội. Đúng là đất làm quan, năm 1978, mới 25 tuổi, anh Sửu đã làm đại đội phó. Cũng năm ấy anh cưới vợ, rồi lên biên giới phía Bắc, không ngờ đầu năm sau anh hy sinh, để lại đứa con trai vừa lọt lòng cho bà nội nuôi, chị Sửu mất vì bệnh hậu sản…

Do vất vả như thế, nên người cụ Sính quắt lại, hai bả vai mỏng mảnh nhô lên, làm cái cổ thụp xuống như con rùa già. Năm nào về quê sang thăm cụ, tôi cũng nghe cụ thở vắn than dài, hờn trời trách đất, đến não ruột. Nhất là khi nhắc đến thằng cháu nội, cụ bảo van vái thế nào nó cũng chưa chịu lấy vợ, vì còn ham phấn đấu lên cấp lên chức. Cụ sợ mắc tội với tổ tiên bên chồng vì không có người nối dõi. Tôi muốn gặp thắng Kỳ nhưng chưa được, nghe nói nó lả thượng úy công an.

Năm ngoái tôi về đúng ngày giỗ cụ ông, dân làng tới dự rất đông, có cả mấy vị người làng làm quan trên huyện, trên tỉnh đi xe hơi về sang trọng lắm. Một người người đàn ông khoảng gần sáu chục tuổi, tầm thước, mặt mũi khôi ngô nhưng nước da và cặp mắt vàng ệch như người bệnh gan mãn tính chủ trì đám giỗ. Các quan chức săn đón và tỏ ra rất kính trọng ông ta. Cụ Sính chỉ người đàn ông đó nói nhỏ với tôi :

- Nhà Qúy đấy!

Nhìn cụ Sính như trẻ ra mấy tuổi. Cụ mặc áo dài, đội khăn nhiễu, đeo sợi dây cườm nhóng nhánh, miệng cười móm mém tươi đỏ quyết trầu. Hôm ấy sau khi cúng giỗ tiệc tùng xong, mọi người về hết. Thằng Kỳ cũng lên xe về Hà Nội với người đàn ông chủ trì đám giỗ. Cụ Sính khoe với tôi:

- Đám giỗ hôm nay nhà Quý bỏ tiền ra làm đấy!

- Qúy con ai bà nhỉ?

- Con cụ Quyền chứ ai? Làm to lắm, trên Hà Nội kia!

Cụ Sính cho miếng trầu vào cái cối đồng như cái chén uống rượu, nghiền nát, rồi kều vào miệng nhai bỏm bẻm. Hơn tám chục tuổi, ngưởi bé choắt, khuôn mặt tóp teo như trái táo khô, nhưng được cái mắt cụ vẫn tinh, đi lại nhanh nhẹn và chưa bị lẫn. Cụ cứ nhắc đi nhắc lại “nhà Qúy, nhà Qúy” vừa thân thiết vừa tự hào làm tôi phát ghen. Tôi hỏi anh Qúy là ai mà tử tế thế, cụ Sính cười bảo:

- Người ta có đức nên mới thế! Vào đến trung ương rồi vẫn nhớ lúc hàn vi.

Cụ Sính nhổ bã trầu, rồi chậm rãi kể cho tôi nghe chuyện anh Qúy. Thì ra anh cùng tuổi anh Sửu, cùng học một trường, cùng đi bộ đội một ngày, và hai người đều sống sót trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Sau ngày miền Nam giải phóng, Qúy chuyền sang công an, bây giờ đã lên cấp tướng, Sửu vẫn ở bộ đội và hy sinh năm 1979…

Cụ Sính tự hào nói với tôi:

- Nhà Qúy nhận thằng Kỳ làm con nuôi. Nhà Qúy nói cuối năm cưới vợ cho thằng Kỳ.

Tôi mừng cho cụ Sính. Thế là cụ đã có chỗ nương tựa tuổi già. Tôi cảm thấy khâm phục anh Qúy, dù quyền cao chức trọng vẫn không quên người bạn đồng môn, và người đồng chí của mình.

Một năm qua đi tôi mải làm ăn trong Sài Gòn, không để tâm đến chuyện đó nữa.

Cách đây mấy hôm tôi về quê giỗ ông nội tôi. Theo phong tục trước ngày cúng giỗ tôi ra nghĩa trang thắp nhang mộ ông bà tổ tiên, mời các cụ về từ đường dự đám giỗ.

Năm nay rét đậm quá. Mùng năm tháng Chạp mà còn rét cắt da cắt thịt. Bầu trời xám xịt màu chì. Sương dày chụp xuống nghĩa trang tối thẫm không nhìn rõ mặt người, gió rin rít qua các khe mộ chí. Trong đời người lúc kiểm nghiệm cuộc sống minh mẫn nhất là lúc đứng một mình trong nghĩa trang. Những bon chen, hờn oán, những mơ mộng viển vông, những khát vọng, và tuyệt vọng được dung hòa giữa không gian tĩnh lặng lằn ranh hai thế giới. Tôi thắp bó nhang, cắm từng cây trên tửng ngôi mộ và có cảm giác những đôi mắt nhìn mình.

Trong tiếng gió rít hình như có tiếng khóc, tiếng réo gọi tuyệt vọng? Tôi lắng tai nghe, tiếng khóc rõ hơn. Tôi len lỏi qua những hàng mộ, tìm về phía tiếng khóc.

Đi miết tới cuối nghĩa trang, cạnh bờ sông, tôi nhìn thấy một thân hình nhỏ bé đang ngồi cạnh ngôi mộ mới chôn, giữa mấy vòng hoa xác xơ, đốm nhang cháy trên mộ đỏ lập lòe. Tôi đến gần, nhận ra đó là một người đàn bà mặc đồ đen, đầu đội khăn tang. Bà vẫn không hay biết, vẫn ôm ghì nấm mộ, tiếng khóc ai oán như từ dưới lòng đất vọng lên:

- Kỳ ơi! Sao cháu bỏ bà Kỳ ơi!

Như có kim đâm vào xương sống, tôi giật bắn người, và một cảm giác bàng hoàng không thể diễn tả nổi, tôi thét lên:

- Ôi, cụ Sính!

Tôi ngồi sụp ôm gọn cụ Sính vào lòng. Người cụ lạnh băng, nhẹ tênh, như một con búp bê bằng nhựa. Ôi sao lại đến nỗi này hở trời?

Tôi bế cụ vào nhả người quen gần nghĩa trang. Cả nhà xúm vào xoa dầu gió cho cụ, đổ cho cụ vài thìa sữa nóng, cụ tĩnh lại.

Tôi không thể nhận ra cụ Sính một năm vể trước. Cụ đã tóp lại như một trái chanh vắt kiệt nước, tóc bạc trắng, hai hố mắt lõm sâu, hai bàn chân bàn tay rệu rạo những đốt xương lạnh ngắt.

Cụ nhìn tôi, mắt lờ đờ, thều thào:

- Nhà Qúy ác lắm !

Cụ chỉ nói được như vậy rồi cụ khẽ nấc lên ba nấc. Mắt cụ mở to. Tôi lấy tay vuốt mắt cho cụ. Hai con mắt khép lại và hai hàng nước mắt lăn ra hai gò má nhăn nheo của cụ. Cụ ra đi cô đơn trong ngôi nhà người quen làng Hệ nơi cụ sinh ra.

Mấy ngày sau dân làng Tò, làng Hệ đều biết câu chuyện đau lòng về cụ Sính. Thương cụ bao nhiêu mọi người căm ghét ông Qúy bấy nhiêu. Người ta gọi hắn là con quỷ.

Viên tướng công an ấy là bạn đồng môn, là đồng chí của anh Sửu. Hắn bị xơ gan cổ trướng đang chuyển sang giai đoạn ung thư, biện pháp tốt nhất là thay gan. Tay chân của Qúy tình cờ phát hiện thượng úy Kỳ có nhóm máu và các chỉ số sinh học hợp với hắn, thế là kịch bản con nuôi, đám giỗ được thực hiện nhằm mục đích lấy lá gan của Kỳ.

Có thể Kỳ sẽ không chết nếu Qúy chỉ lấy nửa lá gan mà Kỳ đã hiến tặng. Vì tham sống lâu hơn, hắn móc ngoặc với bọn bác sỹ vô lương tâm, đánh cắp gần hết lá gan của đứa “con nuôi”. Kỳ vừa bị suy kiệt vừa bị nhiễm trùng, đã chết ba tháng sau khi hiến gan cho quỷ.

Có một câu chuyên cổ tích Campuchia kể rằng, con quỷ Rat-ta-rít-nom, thường ăn thịt đồng loại. Một hôm, đệ tử cùa Rat-ta-rít-nom mang về một đứa bé, bảo đó là con trai duy nhất của Ro-tor-tha-chạt, kẻ thù của Rat-ta-rit- nom. Con quỷ nói: “ Hãy tha cho đứa bé, để ta còn có kẻ thù mà khẳng định sức mạnh cùa ta! Không nên triệt hạ hết nòi giống kẻ khác!” .

Tôi được biết sau khi ăn cắp lá gan của con người đồng hương, đồng môn, đồng đội mình, cũng là con nuôi, Qúy khỏe mạnh hẳn, mặt mày béo tốt, da dẻ hồng hào và lại được lên cấp lên chức. Càng khỏe Qúy càng lao vào các cuộc làm ăn bẩn thỉu và tàn nhẫn với dân lành hơn, nên bây giờ cái dấu sắc bỗng cong vênh, người ta gọi hắn là Quỷ. Tôi nghĩ luật nhân quả luôn hiện hữu và thế nào con quỷ đó cũng bị quả báo.

Cầu trời cho linh hồn cụ Sính bình yên. Mong cụ linh thiêng giúp chúng con diệt loài quỷ dữ.

THEO MINH DIỆN, BÙI VĂN BỒNG BLOG

Read more…

GIA ĐÌNH AN PHONG: CHA QUY VŨNG TÀU GẶP MẶT


Con người sinh ra, ai cũng có cha ,có mẹ, có một gia đình... Không có ai từ đất nẻ mà chui lên... Nhưng vì hoàn cảnh, vì xã hội, vì giáo dục v.v. có một số người kém may mắn, mất hoặc xa cha mẹ sớm, nên phải sống lang thang, không gia đình... Đó là trường hợp các em mà người ta gọi tắt là bụi đời ; nghề sinh sống của các em thường là đi đánh giầy...

Lúc đó, năm 1963, tôi làm quản lý trong Dòng Chúa Cứu Thế ở Rạch-Dừa, Vũng-Tàu. Trong những lúc đi chợ cho nhà dòng, tôi có dịp gặp nhiều em đánh giầy, và lần quen thân với các em...
Một hôm, tám em đánh giầy tới xin tôi ở... Tôi cười và nói : " Bộ tụi con muốn đi tu hả, nhà này là một tu viện mà ? " Các em trả lời : " Không, tụi con muốn ở với cha " ... Ở với cha mà không chịu đi tu: đó là cả một vấn đề. May phước tôi làm quản lý Nhà Dòng, nên có một khu riêng dành cho gia nhân, những người giúp việc cho Nhà Dòng. Để tám đứa ở chung với những gia nhân đó, trong bụng tôi nghĩ thầm: ở đây buồn chết, chúng nó ở ít ngày rồi sẽ đi sống lại ngoài chợ, vui nhộn hơn...

Dè đâu, chúng nó không đi, mà còn rủ thêm các đứa khác đến ở... Thấm thóat, con số lên tới hơn hai chục. Bấy giờ "Chúa mới can thiệp vào vấn đề".

Trước mặt Nhà Dòng là một phi trường. Phi cơ và trực thăng của quân đội Mỹ bốc lên đáp xuống liên lỹ, làm các cha dạy học ở Đệ-tử-viện, không dạy được. Các cha phàn nàn với Cha Bề Trên Giám Tỉnh..., và Cha Bề Trên Giám Tỉnh mới giải quyết: đưa Nhà Đệ-Tử lên Sàigòn. Thế là cả Nhà Dòng và Nhà Đệ Tử ra đi di tản, để lại mấy chục em bụi đời. Và tôi ở lại với các em...

GIA ĐÌNH AN-PHONG bắt đầu tự túc : nuôi gà để nuôi nhau; khởi sự với hai mươi con, đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, số gà lên tới hơn 6000 con, và từ trước đến lúc đó đã ăn không biết bao nhiêu và đã bán biết bao nhiêu... Bàn tay của Chúa thấy rõ ràng. Chúa sinh Chúa dưỡng.

Nhờ đường lối Chúa soi sáng mà số các em mỗi ngày mỗi tăng thêm. Tôi nói với các em : Chúa dựng nên con người và cho hoàn toàn tự do. Cho nên trong nhà của mình, chúng con muốn làm gì thì làm. Đứa nào muốn đi học, cha cho đi học. Đứa nào muốn học nghề, cha cho học nghề. Còn đứa nào muốn ở không chơi, không làm gì hết, vẫn cứ được như thường. Không làm gì hết mà đến bữa ăn, có quyền đến ăn như mọi người, vì mình là đứa con trong nhà thì mình có quyền ăn, còn làm việc là chuyện khác. Nghe vậy, đứa nào cũng thích, và tụi nó mới rủ nhau đến ở càng ngày càng đông...

Một hôm, mấy anh lớn có ý kiến giáo dục hay, mới bàn với tôi. Chúng con muốn chia nhóm. Chia nhóm là làm sao ? Tất cả tụi con đều là bụi đời. Vậy thì mấy em nhỏ, đi học, là nhóm "bụi non". Còn các anh lớn, học nghề, là nhóm "bụi già". Còn mấy anh em không làm gì hết là nhóm "bụi cà nhỏng"!!! Nói rồi và làm liền... Mấy anh em nhóm "cà nhỏng" hơi quê xệ một chút. Nên từ từ rồi mấy anh em đó gia nhập nhóm "bụi học trò" hay "bụi học nghề"...Thế là ý kiến giáo dục của mấy anh lớn đã thành công mỹ mãn.

Lúc ấy, cơ quan viện trợ Công Giáo Mỹ quốc có cho bột mì, làm bánh mì cho học sinh nghèo. Tôi mới kêu một ông thợ làm bánh mì người Trung-Hoa, Chú Hai. Chú Hai xây một cái lò củi nướng bánh mì. Tôi nói với các em : đứa nào muốn học làm bánh mì thì đi với Chú Hai. Một số mấy anh lớn đi với Chú Hai... Tôi cũng có mướn hai ông thợ máy : anh Hai và anh Ba. Tôi nói với các em : đứa nào muốn học nghề thợ máy sửa xe hơi thì đi với anh Hai, anh Ba... Thế là mấy tháng sau, trong nhà có hai băng thợ làm bánh mì và thợ máy sửa xe hơi... Như thế là GIA ĐÌNH AN-PHONG đã khai trương Lò Bánh Mì AN-PHONG và Garage AN-PHONG, thêm phương tiện nuôi sống các em.

Với thời gian, theo đường giây radio-Á-Rập, GIA ĐÌNH AN-PHONG và xe cammionnette Peugeot 404 của cha Qui được các em đánh giầy chẳng những ở Vũng-Tàu mà cả Sài-gòn-Chợ-lớn biết và nhận diện. Các em rủ nhau vô ở càng đông... Một hôm tôi đi chợ ở Chợ-lớn. Đi chợ xong, trở lại xe, tôi thấy mười một em với thùng giầy trên tay, ngồi sẵn trên xe : các em ngồi chơi vì biết là xe của cha Qui. Tôi ngó các em, các em nhìn tôi cười, chào nhau. Tôi mới buột miệng hỏi các em : "Cha đi về Vũng Tàu nè, đứa nào muốn đi Vũng-Tàu tắm biển vài ngày rồi trở về Chợ-lớn lại, cha sẽ chở về... Các em dòm nhau, hỏi ý kiến, rồi bảo nhau,: Mình phải đi trả thùng giầy cho "anh nuôi" đã... Mỗi em có "anh nuôi" và thùng giầy riêng của anh đó. Mấy em nhanh chân, nhẩy xuống xe và trong mấy phút, chạy trở lại, nhẩy lên xe, ngồi gọn gàng, vui cười khoái chí...

Thế là mười một em đánh giầy ở Chợ-lớn, không cần tính toán lâu bắt đầu đi Vũng-Tàu tắm biển...

Thứ hai tuần sau, tôi có dịp lên Sài-gòn. Tôi gọi mười một em hôm trước đến và hỏi : "Cha đi Sài-gòn đây, tụi con muốn về thì lên xe". Các em ngó nhau, cười và đồng thanh : "Không, tụi con không đi về, tụi con ở lại đây với cha..." Vậy là GIA ĐÌNH AN-PHONG tăng số thêm mười một người nữa...

Cùng với các em bụi đời, có nhiều gia đình nghèo, cũng đến xin ở. Dần dần số những người này cũng lên đến mấy chục gia đình...

Lại có những em sơ sinh : cha mẹ sinh ra, rồi không thể nuôi được, đem đến gởi GIA ĐÌNH AN-PHONG nuôi giúp. Hoặc các bà mẹ ôm con ra ngoài chợ, rồi nhờ các bà biết đường giây, ẵm vào GIA ĐÌNH AN-PHONG giùm... Thành phần thứ ba này gia tăng cũng nhanh; cuối cùng trong nhà cũng được ba phòng, mỗi phòng 40 chục cái nôi... Cùng với các em, Chúa cũng gởi mấy bà, mấy chị đến tình nguyện nuôi các em... Việc của Chúa làm bao giờ cũng lạ lùng...

Thêm các gia đình nghèo và các em sơ sinh, thì thêm miệng ăn. Chúa lại gởi quân đội Mỹ, Úc đem đồ giặt đến : GIA ĐÌNH AN-PHONG lại thêm nhà giặt ủi để nuôi sống nhau... Tạ ơn Chúa.

Nhờ Chúa soi sáng và dẫn dắt, đường lối làm việc trong GIA ĐÌNH AN-PHONG tóm tắt trong một câu "Tôn trọng tự do và yêu thương lẫn nhau". Cho nên GIA ĐÌNH AN-PHONG không từ chối một người nào đến xin giúp đỡ. Kết quả : ngày 30 tháng 4 năm 1975, con cái Chúa, tính ra được : hơn 300 em bụi đời, hơn 100 ông bà gia đình nghèo, và hơn 100 em bé cô nhi...

Đó, là tiểu sử ngắn gọn của GIA ĐÌNH AN-PHONG, hôm nay được gởi lên mạng internet. Hy vọng ông bà anh chị nào đã sống cùng nhau thời gian ngắn dài nào đó, tìm dịp về gặp lại nhau, chia sẻ vui buồn với nhau. Liên lạc với GIA ĐÌNH AN-PHONG ở Pháp : Lm Nguyễn Văn Qui 27 Place Frederic auguste Bartholdi - 95120 Ermont - France; ĐT trong nước Pháp : 0134150584; ĐT từ ngoài nước Pháp : 33134150584.

Read more…

THƯ CỦA HỌC TRÒ LIÊN THÀNH GỞI THẦY HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (TÊN TỘI ĐỒ DÂN TỘC)

Thưa Thầy,
Con là Liên Thành, là một học trò cũ của Thầy tại lớp Đệ Nhị B2, trường Quốc Học niên khóa 1958-1959. Có lẽ bây giờ vì tuổi đời đã cao hơn nữa thân mang bệnh tật nên Thầy không còn trí nhớ tốt, vì vậy con xin nhắc lại đây những kỷ niệm của bọn con lớp Đệ Nhị B2 niên khóa 58-59 tại trường Quốc Học Huế đối với Thầy. 
Đứng ngoài cùng bên trái là học trò Liên Thành (x) thời gian học với Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường Quốc Học Huế

Thưa Thầy,
Lớp Đệ Nhị B2 tụi con có khoảng 50 đứa. Tụi con học ban Toán nên môn Việt Văn thường không hấp dẫn và cũng không làm chúng con quan tâm lắm. Chúng con thỉnh thoảng bỏ lớp trốn học kéo nhau sang Lạc Sơn ngồi nhâm nhi ly café, cảm thấy thú vị hơn phải ngồi nghe giảng dạy môn Vạn Vật, Anh Văn v.v… Thế nhưng đối với môn Việt Văn của Thầy dạy thì lũ chúng con không thiếu một đứa nào trong lớp. Cả lớp im lặng ngồi há miệng say mê nghe Thầy giảng bài, nghe Thầy nói văn chương chữ nghĩa, nghe Thầy giải thích điển tích. Có thể nói trí nhớ của Thầy siêu đẳng.

Thầy có tài ăn nói lôi cuốn người nghe, và đặc biệt Thầy có một vóc dáng thư sinh, khuôn mặt hiền từ, mái tóc bồng bềnh của một thi sĩ, một người lãng mạn nhẹ nhàng.

Thầy vào lớp, không sách, không vở, không tài liệu cầm tay. Thầy nói thao thao bất tuyệt về văn chương, chữ nghĩa thơ phú, điển tích xa xưa, đến những bài thơ cổ, cả lớp vẫn ngồi im lặng say mê nghe Thầy nói. Và ngoài ra Thầy còn giảng dạy cho chúng con những điều phải trái, tư cách làm người, đạo đức. Thầy quả là có một tấm lòng nhân hậu thương yêu mọi người…

Rồi thời gian qua nhanh, đất nước không còn có được những ngày tháng thanh bình. Người Cộng Sản miền Bắc phát động cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam. Lũ chúng con, những thằng học trò cũ của Thầy, cùng với các thanh niên cùng trang lứa tại khắp bốn vùng chiến thuật Miền Nam, xếp bút nghiên xông vào chiến trận cùng nhau gánh vác khổ nạn của quê hương. Chúng con chiến đấu không mang mặc cảm làm tay sai cho ai, không bao giờ nghĩ mình là lính Ngụy. Chúng con chiến đấu không vì hận thù. Chúng con chiến đấu chỉ vì lý tưởng, vì quê hương, vì xứ Huế dấu yêu. Lớp Đệ Nhị B2 của Thầy có năm mươi thằng học trò. Thầy biết không, tàn cuộc chiến chúng con chỉ còn lại dăm ba thằng. Hầu như tất cả đã ngã gục ngoài chiến trường, ngã gục trước lằn tên mũi đạn của những đồng chí Cộng sản với thầy, để bảo vệ đồng bào làng xóm thân yêu, trong đó có cha, có mạ, có chị, có em, có hàng xóm gần, láng giềng xa, có xứ Huế, có sông Hương núi Ngự, có cầu Tràng Tiền sáu vài 12 nhịp.

Thầy còn nhớ Văn Đình Tùng không? Tùng có biệt danh Tây Lai bạn cùng lớp với con, Mễ, Huấn, v.v. Năm học Đệ Nhất B5 hắn đi khóa 18 Võ Bị cùng với Lê Văn Mễ, Lê Huấn, còn con ở lại học tiếp cho xong Tú Tài II sau đó quyết định vào Thủ Đức. Ra trường Võ Bị hắn làm sĩ quan Điều Không của Sư đoàn 18, sau đó đi Mỹ học khóa đại đội trưởng. Từ Mỹ về, Trung Úy Văn Đình Tùng ra làm Đại Đội Trưởng Đại đội Trinh Sát Sư Đoàn 2. Trong một cuộc hành quân đại đội hắn nhảy xuống vùng mà tin tức tình báo sai lạc, Đại Đội hắn bị hai tiểu đoàn quân thù vây kín, hắn bỏ súng nhỏ ôm súng lớn, súng đại liên bắn chận quân thù cho lính thoát thân. Lính chạy thoát được còn hắn bị quân thù đâm trên 100 nhát dao. Hắn chết đứng sừng sững giữa trời, hiên ngang như Từ Hải chết trong truyện Kiều mà thầy đã dạy tụi con.

Cố Đại Úy Văn Đình Tùng Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân!

Còn nữa, một thằng học trò nữa mà thầy không thể quên hắn, vì hắn là thằng phá phách nhất lớp Đệ Nhị B2, năm sau lên Đệ Nhất B5 và đi Khóa 18 Võ Bị. Hắn là Lê Huấn. Hành quân Hạ Lào hắn là Trung Tá trung đoàn trưởng, và hắn cũng trở thành Cố Đại Tá Lê Huấn Vị Quốc Vong Thân.

Thưa Thầy, năm mươi đứa học trò của thầy ở lớp Đệ Nhị B2 đa số đều như Văn Đình Tùng, Lê Huấn.

Trước tháng 6/1966, con ở lính tại Chi Khu Nam Hòa. Tình cờ trong một lần hành quân để di tản đồng bào từ làng Lương Miêu, Dương Hòa, mật khu của Việt Cộng, đưa đồng bào về vùng an ninh của VNCH, cuộc hành quân phối hợp với một trung đoàn của Sư Đoàn I Bộ binh, con gặp một vài thằng bạn trong lớp Đệ Nhị B2 như Trung Úy Nguyễn Tần, Đại Đội Trưởng, Thiếu Úy Trần Vĩnh, Tiền Sát Viên Pháo Binh, và một vài thằng nữa. Trên bước đường xuôi ngược của người trai thời loạn, gặp nhau quả thật xúc động. Chúng con ngồi kể chuyện xưa, chuyện học trò, chuyện trường Quốc Học. Chúng con nhắc đến tên Thầy với niềm kính trọng và trìu mến như chạm vào một kỷ niệm đẹp của tuổi học trò.

Thế nhưng, định mệnh thật trớ trêu. Bẵng đi vài năm, vào tháng 6 năm 1966 khi cuộc phản loạn của Trí Quang, Đôn Hậu tại Huế đang ở giai đoạn cao điểm, con từ Chi Khu Nam Hòa về giữ chức vụ Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Ty CSQG Thừa Thiên-Huế, một đơn vị nhỏ trong đại đơn vị của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan dẹp loạn Miền Trung. Con quá ngỡ ngàng Thầy lại ở trong hàng ngũ phản loạn tiếp tay cho Cộng sản tàn ác chống lại chính quyền Quốc Gia.

Đời sống thật quả thật có những tình cờ oái ăm làm cho con người gặp nghịch cảnh phải cứng họng, cứng lưỡi chẳng thốt lên được một lời nói nào. Đó là trường hợp của con lúc bấy giờ. Vì hai người nguy hiểm nằm trong hàng ngũ địch phá rối trị an tại Huế lúc bấy giờ, một người là Thầy của con, Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường, và người kia là bạn học từ những năm học tiểu học tại trường tiểu học Nam Giao là Nguyễn Đắc Xuân.

Con sẽ phải đối phó với họ bằng những hành động thẳng tay nhất. Những kẻ theo giặc, nếu bắt sống được họ, thì phải bỏ tù họ và đày đi Côn Đảo với đề nghị bản án nặng nhất, còn nếu phải chạm súng, con sẽ phải dùng hỏa lực mạnh nhất để triệt hạ ngay.

Trong hồ sơ cá nhân của Thầy và Nguyễn Đắc Xuân mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt do con chỉ huy đã sưu tầm cập nhật, thì Thầy là cán bộ trí vận hoạt động trong giới học sinh, sinh viên tại Đại Học Huế, và trong lực lượng phản loạn của Trí Quang và Đôn Hậu. Thầy là người của Khu Ủy Khu 5 Việt Cộng, và cán bộ Cộng Sản chỉ đạo của thầy là Hà Kỳ Ngộ bí danh Thành, có phải vậy không Thầy?

Về Nguyễn Đắc Xuân thì hắn cũng hoạt động trong tổ trí vận của cơ quan Thành Ủy Huế. Hắn phụ trách về học sinh, sinh viên Đại Học Huế. Cán bộ Cộng sản chỉ đạo hắn là Hoàng Kim Loan, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế.

Tóm lại Thầy và Nguyễn Đắc Xuân là hai tay nằm vùng thứ thiệt của Cộng sản từ năm 1963 và cũng là hai tay rường cột của Trí Quang và Đôn Hậu trong mọi cuộc dấy loạn từ 1963 đến 1966, và Mậu Thân 1968 tại Huế. 

Thưa Thầy,
Đã có điều gì làm cho Thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày của một sinh viên Đại Học Sư Phạm thuộc trường Đại Học Sàigòn? Chính phủ VNCH thời đó đã cấp học bổng cho Thầy ăn học với số tiền là một ngàn năm trăm đồng (1500$) mỗi tháng, như Thầy đã viết trong hồi ký:
“Năm 1957, tôi vào ở Sàigòn, trọ tại cư xá sinh viên Miền Trung ở đường Bùi Quang Chiêu (nay là đường Đặng Thị Thu). Sáng nào cũng ăn phở Bắc Hà ở tiệm Trường Ca đường Yersin ngay đầu phố. Học bổng sinh viên Đại học Sư Phạm khóa I được 1500$ một tháng, mà trong khi đó tô phở chỉ có một đồng (1$), nên xem ra tôi sung sướng hơn sinh viên bây giờ. Sáng nào cũng ăn phở, mỗi tháng chỉ mất 30$.”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập 1. Trang 28)

Đã có điều gì làm cho thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày sau khi tốt nghiệp trở thành một thầy giáo trung học đệ nhị cấp? Chính phủ VNCH bổ nhiệm thầy dạy các trường lớn như trường Quốc Học, Đồng Khánh, và với đồng lương của một giáo sư có bằng Đại Học Sư Phạm bốn năm thầy có thể ăn bao nhiêu ngàn tô phở buổi sáng?

Thầy cũng đã sống, đã hưởng những ngày tháng sung túc về vật chất, và thanh bình tốt đẹp của Miền Nam Việt Nam, bên cạnh người tình xinh đẹp dịu dàng Tôn Nữ Bảng Lãng. Vậy thì tại sao và cái gì đã biến đổi Thầy từ một vị thầy giáo được học trò kính mến, một nhà trí thức đúng nghĩa, một nhà giáo đạo đức hiền lành trở thành kẻ tàn bạo vong ơn bội nghĩa, trở thành người Cộng sản sắt máu man rợ, tại sao vậy Thầy? Tại sao? và Tại sao?...

Chúng con, những thằng học trò cũ của Thầy, nghĩ mãi không ra, không có lý lẽ nào nghe được. Chỉ có thể kết luận có lẽ Thầy bị bệnh hoang tưởng, bệnh ảo tưởng nghĩ rằng Cộng Sản Miền Bắc là thiên đàng hạ giới, là chế độ biết chiêu hiền đãi sĩ, là nơi để cho Thầy phát huy tài năng hiếm có của mình chăng? Chủ thuyết Cộng sản lôi cuốn mê hoặc Thầy đến thế hay sao? Và một điều ngạc nhiên lạ lùng là cái gì đã biến đổi Thầy từ bản chất của một người hiền lành, nhân hậu, thành một tên dối trá không ngượng miệng, một ác quỷ giết người không gớm tay. Thầy say máu người còn hơn ác quỷ Dracula.

Chẳng lẽ thầy bị bệnh điên loạn, bệnh “thần kinh thương nhớ”? Hay Thầy cũng giống như tên PolPot lãnh tụ Khmer Đỏ, một trí thức cũng như thầy, đã ra tay giết gần 2 triệu đồng bào Khmer của hắn ta để thực hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản sắt máu mới thỏa lòng hả dạ. Thật tình chúng con không hiểu nổi tại sao Thầy lại biến đổi nhanh như vậy.

Thưa Thầy chắc hẳn Thầy không bao giờ quên sau năm 1975 tại Huế, trong một buổi trà dư tửu hậu tại một nhà người bạn với rất đông bạn bè của Thầy tham dự. Một trong những người bạn thân nhất của Thầy, người đã từng hoạt động với Thầy trong tổ trí thức vận, kẻ đã từng chuyển tờ báo “Việt Nam Việt Nam” của Thầy vào Quy Nhơn, vào Sàigòn là Giáo sư Bửu Ý, cũng là thầy dạy Pháp Văn của tụi con ở lớp Đệ Nhất B5 tại trường Quốc Học, ông ta đã chỉ vào mặt Thầy và nói rất nặng lời. Con xin lỗi thầy phải nói lại nguyên văn lời Thầy Bửu Ý nói với Thầy như sau:
“Tường, mi là một thằng trí thức sắt máu hèn hạ, giờ nầy mi chưa sáng mắt, còn chạy theo liếm đít Đảng nữa hay sao?”

Có lẽ Thầy Bửu Ý vẫn chưa hiểu hết con người Thầy Tường, vì Thầy Tường hoạt động cho Cộng sản từ trước năm 1963. Đến năm 2003 mặc dầu đã cố gắng phục vụ Bác và Đảng, tạo được biết bao nhiêu thành tích, bao nhiêu công trạng hiển hách, giết được vô số Mỹ Ngụy, trong đó phải kể đến công trạng to lớn nhất của Thầy Tường đối với Bác và Đảng là tàn sát dân Huế trong Mậu Thân 1968, lập Tòa Án Nhân Dân chôn sống cả trên 200 tên phản động, vậy mà vẫn chưa được Bác Đảng cho Thầy trở thành đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Công chưa thành danh chưa toại, nên Thầy Tường phải tiếp tục sự nghiệp dang dỡ, tiếp tục hạ mình luồn cuối đến cùng để đạt được cái thẻ Đảng. Chỉ vậy thôi thưa thầy Bửu Ý! Xin cho con trả lời câu hỏi trên của Thầy về Thầy Tường.

Mấy năm gần đây khi Thầy lâm trong bệnh phải ngồi xe lăn, nghe nói Thầy đã được bọn chúng cho Thầy vào Đảng. Thầy đã có thẻ đảng trở thành đảng viên Cộng sản, con cũng mừng cho Thầy là dù sao cuối đời cũng đạt được ý nguyện. Chúc mừng Thầy!…. Chúc mừng Thầy!…

Có lẽ mộng ước của một kẻ trí thức như Thầy muốn lưu lại một cái gì đẹp đẽ cho đời sau về mình, về dòng họ mình. Nhưng thưa Thầy, Thầy đã khôn một thời và dại một đời. Thầy và thằng em ruột của thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan đã lưu lại cho hậu thế và lịch sử những nguyền rủa, phỉ nhổ, kinh tởm vào cá nhân hai anh em Thầy và làm xấu hổ cho dòng họ của Thầy. Những nấm mồ tập thể của dân Huế còn đó thì tội lỗi của cả hai anh em Thầy nhúng tay vào máu dân lành vô tội Huế Mậu Thân 1968 vẫn còn đó. Cái mà Thầy đã làm cho dòng họ mình đó là dòng họ Thầy phải gánh chịu tội ác không bao giờ tẩy rữa được này.

Thưa Thầy, dân chúng làng La Khê, quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, nơi nguyên quán của Thầy, họ đã từng hãnh diện là tại làng La Khê có được một dòng họ Hoàng Phủ.

Lịch sử đã ghi vào năm 1882, Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng Đốc Hoàng Diệu thắt cổ tử tiết vì không giữ được thành. Vị phụ tá Tổng Đốc Hoàng Diệu là quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng đã tuyệt thực để tạ tội với Vua, tạ lỗi với đồng bào vì đã không làm tròn nhiệm vụ Vua giao, và ông chỉ ngưng tuyệt thực khi Khâm Sai Đại Thần Trần Đình Túc mang Chiếu Chỉ của Vua Tự Đức ra Hà Nội lệnh cho Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng ngưng tuyệt thực.

Thưa thầy, Thầy có biết quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng là ai không? Quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng chính là Nội Tổ của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan.

Nội Tổ của Thầy danh giá như vậy đó, trung liệt như vậy đó, thì tại sao hai anh em của Thầy nỡ lòng nào bôi xấu giòng họ mình, làm nhục tổ tiên mình, làm hoen ố tên tuổi quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng, để đến nỗi sau Mậu Thân 1968, các vị bô lão của làng La Khê vì quá hổ thẹn với hành động sát hại đồng bào Huế do hai anh em Thầy gây ra, họ đã phải buộc miệng nói rằng: “Thói đời, hổ phụ sinh hổ tử, tại sao lại có chuyện nghịch đời hổ phụ sinh cẩu tử”.

Thưa Thầy,
Thầy có biết không, đã bốn mươi hai năm trôi qua, hằng năm mỗi lần Tết đến, khi nhắc đến cuộc tàn sát kinh hoàng do Thầy và em ruột của Thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan gây ra thì mọi người dân Huế không một ai là không kinh tởm, không nguyền rủa Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Nói đến tang tóc đau thương của 5327 sinh mạng dân lành vô tội và hơn 1200 người mất tích ở Huế là nói đến các tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Thầy có biết không?

Như vậy kể từ tháng 6/66, thầy trò chúng ta ơn đoạn, nghĩa tận. Chúng ta không còn gì để giữ tình thầy trò. Biên giới đã được phân định. Thầy và Nguyễn Đắc Xuân thuộc về bờ Bắc, và tôi thuộc về bờ Nam của giòng sông Bến Hải chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17.

Trong chức vụ phó Trưởng ty Cảnh Sát Đặc Biệt của Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế, trách nhiệm của tôi là phải vô hiệu hóa mọi công tác của đám cán bộ, cở sở nội thành Việt Cộng, phải bắt giữ tất cả. Và một trong những mục tiêu quan trọng mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt của tôi phải vô hiệu hóa càng sớm càng tốt đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân.

Tôi đã bố trí lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt để bắt giữ Thầy. Còn nhớ trước khi Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan thoát lên mật khu, chiều hôm đó Thầy từ nhà tên Chính, cơ sở nội thành ở đầu cầu Phủ Cam trên đường Phan Chu Trinh thuộc Quận III thị xã Huế, di chuyển sang nhà của Trịnh Công Sơn. Ăn cơm tối với Trịnh Công Sơn xong, thì hai cán bộ nội thành thuộc tổ trí vận của Thành Ủy Huế đến đưa Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan rời khỏi nhà Trịnh Công Sơn bằng chiếc xe hơi màu trắng của Bà Đào Thị Xuân Yến tức bà Tuần Chi chạy lên Chùa Linh Mụ. Rồi từ đó Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan đi đường bộ qua ngã Long Hồ Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Hương lên vùng mật khu núi Chuối, tức núi Kim Phụng. Hai cán bộ nội thành đón hai anh em Thầy không ai khác hơn là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm đóng vai cận vệ, và tài xế là Lê Cảnh Đạm, Tổng Thư Ký trường Đại học Y Khoa Huế.

Tôi là một sĩ quan tác chiến mới vào nghề an ninh tình báo nên chưa đủ bản lãnh và kinh nghiệm của nghề nghiệp, cũng như chưa đủ bản chất lạnh lùng của một sĩ quan tình báo khi thi hành công tác. Vì vậy tôi đã vấp phải một lỗi lầm rất lớn để phải ân hận suốt đời, là giao công tác hệ trọng nầy cho viên phụ tá của tôi, anh Xuân, trưởng ban Hoạt Vụ chỉ huy, còn tôi đứng khá xa, vì tôi không nỡ làm hành động trò trực tiếp bắt thầy. Nếu tôi đích thân chỉ huy lực lượng Cảnh Sát Đặc biệt vây bắt Thầy tối hôm đó, chắc chắn thầy không tài nào có thể chạy thoát được.

Tại sao? Lý lẻ duy nhất để biện minh cho hành động tắc trách của tôi lúc đó là đạo nghĩa, là giáo dục của phụ thân tôi, là giáo dục của của học đường Miền Nam, của thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường, của xã hội Miền Nam Việt Nam: Một chữ nên thầy một ngày nên nghĩa, nên tôi đã không thể vượt qua hàng rào đạo đức lễ giáo. Lúc đó tôi cũng chưa được huấn luyện và dày dạn phong sưong để có thể có được hành động và trái tim lạnh lùng của một sĩ quan tình báo. Hành động trò đi bắt thầy là một hành động khó có thể chấp nhận được. Cũng vì lễ giáo đó mà nay tôi phải ân hận suốt đời, đã để xổng một con ác quỷ! Tôi đã không hiểu thấu một lý lẽ quan trọng: Nếu cần phải vô hiệu hóa một người để cứu một trăm người, thì đó là chuyện phải làm.

Không còn gì để nói về tình thầy trò giữa tôi và Thầy.


Liên Thành.


Thư của cựu Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế, Thiếu Tá Liên Thành gởi: 
- Hoàng Phủ Ngọc Tường, Cán bộ trí vận thuộc Khu ủy Khu 5 (Miền Trung).
- Tổng thư ký Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình 
- Chủ tịch Tòa Án Nhân Dân tại trường trung học Gia Hội, Bãi Dâu, Quận II Thị xã Huế năm Mậu Thân 1968.
- Tội phạm chiến tranh, tội phạm diệt chủng Hoàng Phủ Ngọc Tường.


Bằng vào một số chứng cớ rõ ràng minh bạch, qua trên một trăm (100) nhân chứng, tôi xác nhận Hoàng Phủ Ngọc Tường là người chủ tọa phiên Tòa Án Nhân Dân của Chính Quyền Cách Mạng Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, được thiết lập tại trường trung học Gia Hội, Bãi Dâu thuộc Quận II (Tả Ngạn) Thị xã Huế vào Tết Mậu Thân 1968. Y cũng chính là người ra lệnh tử hình 204 người. Đa số là thường dân vô tội.

Sau Mậu Thân, tức sau ngày 26 tháng 2 năm 1968, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm Huế hoàn toàn. Cộng quân đã tháo chạy. Tình hình an ninh ổn định dần dần. Tôi cho lệnh các toán tình báo, các đơn vị CSĐB tiếp xúc với số thân nhân nạn nhân đã bị Việt Cộng sát hại. Trong đó chúng tôi có mở cuộc điều tra chi tiết vùng trường học Gia Hội. Mục đích là cập nhật thêm tin tức, bằng chứng, xác nhận danh tánh những tên Việt Cộng đã nhúng tay vào các vụ thảm sát đồng bào, để truy bắt và vô hiệu hóa bọn chúng. Những tin tức chúng tôi thu thập được gồm có:

1- Hơn một trăm lời khai từ thân nhân của nạn nhân tại trường trung học Gia Hội đều nói rõ: Khi thân nhân họ bị bắt dẫn đến trường Gia Hội, họ đã đi theo và họ hiện diện trong phiên tòa của Tòa Án Nhân Dân tại đó.

2- Một số nhân chứng xác nhận: Người ngồi xử tội thân nhân họ là ông Giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, người mà họ đã biết mặt trong thời gian Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu tại Huế vào mùa hè năm 1966. 


3- Một số khác tả nhân dạng người ngồi ghế xử tội thân nhân họ có nốt ruồi đen khá lớn ở phía cằm bên phải, nghe đâu ông ta tên Tường là thầy dạy học ở trường Quốc Học trước đây.


4- Đặc biệt là lời khai của một quả phụ, vợ của một Chuẩn úy thuộc Sư đoàn I Bộ Binh:

Khi chồng bà bị toán thanh niên của Nguyễn Đắc Xuân xông vào lục soát và bắt chồng bà ta tại nhà, bà đi theo và đem thức ăn quần áo cho chồng. Tại trường Gia Hội, người chồng nói với bà:
“Em đừng lo, người ngồi xử trên đó là Thầy dạy cũ của anh, Thầy Tường, dạy anh ở trường Quốc Học.”


5- Trưởng Ban Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Quận II Thị xã Huế, Thiếu Úy Trọng, trong bản báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tỉnh sau Tết Mậu Thân cũng đã phúc trình Hoàng Phủ Ngọc Tường là người chủ trì Tòa Án Nhân Dân tại trường Gia Hội trong Tết Mậu Thân 1968 và đã xử tử hình 204 đồng bào.


6- Cuối cùng là lời khai của Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế, Trung Tá Điệp Viên Cộng Sản Hoàng Kim Loan, kẻ chỉ huy cuộc tổng nổi dậy vào Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Hoàng Kim Loan bị chúng tôi bắt vào tháng 5/1972. Y đã khai như sau:
“Chính tôi (Hoàng Kim Loan), và hai thành ủy viên khác là Phan Nam, Hoàng Lanh đề cử Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế Chủ Tịch Tòa Án Nhân Dân tại trường Gia Hội, và chúng tôi đều có mặt trong phiên xử đó.”

Tôi thấy cũng đã quá đủ những lý lẽ, dữ kiện để có thể kết luận:
1- Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt tại Huế trong suốt thời gian Mậu Thân 1968.
2- Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là Viên Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tại trường Gia Hội, vùng Bãi Dâu thuộc Quận II Thị xã Huế trong Tết Mậu Thân 1968. 
3- Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là kẻ đã buộc tội và ra lệnh tử hình 204 người, đa số là thường dân vô tội, bằng cách chôn sống họ ngay tại trường Gia Hội vùng Bãi Dâu thuộc Quận II Thị xã Huế trong Tết Mậu Thân 1968.

Vụ tàn sát kinh rợn đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968 của đảng Cộng sản Việt Nam và nhóm tay sai trong lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình (gồm có: Lê Văn Hảo, Thích Đôn Hậu, Đào Thị Xuân Yến, Thích Thiện Siêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thiết, Nguyễn Hữu Vấn và quá nhiều đám tay chân của Thích Trí Quang trong vụ phản loạn năm 1966 tham dự vụ tàn sát này) đã được thế giới biết đến. Sau năm 1975 thì các hãng truyền hình quốc tế đã cố gắng liên lạc để phỏng vấn những tên sát thủ đã bỏ chạy sang bờ Bắc vĩ tuyến 17, trong đó có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Năm 1982 hãng truyền hình London đã phỏng vấn y về Mậu Thân. Y trả lời nguyên văn như sau:
Câu hỏi mà các phóng viên quốc tế hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường về cuộc tàn sát Mậu Thân, tại sao có những cuộc tàn sát đó thì Hoàng Phủ Ngọc Tường thản nhiên trả lời:
“Phải giết bọn chúng như là giết những con rắn độc”.

Chính miệng hắn năm 1982 trong cuộc phỏng vấn, còn ghi lại đầy đủ hình ảnh âm thanh trên Internet, đã xác nhận rằng hắn có mặt tại trận đánh Mậu Thân, lội trong máu gần ở phố Đông Ba. Thế mà mấy năm gần đây, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đổi trắng thay đen chối phắc rằng: Y không nhúng tay vào các vụ tàn sát tại Huế, vì suốt thời gian trận đánh xảy ra y đang nấp dưới hầm tại vùng Khe Trái. Trong khi ở Khe Trái, theo ghi nhận của các cơ quan điều tra VNCH, là hoàn toàn không có một bóng cộng quân nào ở vùng Khe Trái này khi trận đánh Mậu Thân diễn ra. Đây chỉ là điểm chúng tập kết quân trước trận đánh mà thôi.

Tôi đã trích một đoạn trong cuốn hồi ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở phần trên để chứng minh rõ ràng rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có mặt tại Huế trong suốt 26 ngày cộng quân tấn công và chiếm Huế, và Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng đồng bọn là những tên đao phủ giết quá nhiều đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968.

Dù hắn có chối bay chối biến chăng nữa, thì sự thực vẫn là sự thực. Sự che dấu tội lỗi gần đây của chúng đã quá muộn vì chính chúng chứ không ai khác khi “cách mạng” mới thành công đã vênh vang tự đắc nhận công trạng giết người như giết rắn độc của mình. Bây giờ khi thực tế chứng minh Chủ Nghĩa Cộng Sản là một thảm họa cho Việt Nam, bị ngay cả chính nhiều đảng viên Cộng sản phỉ nhổ, thì chúng lo sợ bị lịch sử phanh phui, bị đưa ra tòa án quốc tế nên chối bay chối biến. Viết cuốn sách Huế Thảm Sát Mậu Thân 68 này chúng tôi chỉ trưng ra những bằng cớ để quý độc giả nhận định mà thôi. Việc xét đoán đã có đấng thiêng liêng quyết định và những oan hồn của dân lành vô tội chắc chắn sẽ không để hắn yên.

Hoàng Phủ Ngọc Tường 

Giờ đây với bệnh tật phải ngồi xe lăn, và cõi chết đã gần kề, Hoàng Phủ Ngọc Tường không thể chối tội với lương tâm của mình, cũng không thể quên được những ngày bi thảm của cuộc tàn sát ghê rợn, đẫm máu do chính y gây ra cho đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968.

Tên sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường:

“Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi…”

Trong phần đời ngắn ngủi còn lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sống những chuỗi ngày sợ hãi, sợ hồn ma bóng quế, sợ oan hồn ẩn hiện của những kẻ đã bị Hoàng Phủ Ngọc Tường thảm sát 42 năm về trước, bởi thế cho nên hắn đã viết như sau:



“Những chiều Bến Ngự dâng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang”.
Hoặc là:
“Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi…”
(Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường)


Hoàng Phủ Ngọc Tường!
Không có người sống để ông “ra mở cửa đón người” mà chỉ là những người chết, là oan hồn của những dân lành vô tội đã bị ông sát hại gõ cửa linh hồn ông. Kiếp luân hồi tôi nghĩ cũng không thể có đối với ông được vì nghiệp chướng mà ông gây ra đã quá nặng. Ông phải bị đày cả ngàn năm hơn dưới 18 tầng âm ti địa ngục, đừng hy vọng gì để: “Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi." 

Liên Thành
Read more…